Chào mừng bạn đến với Website Sở Văn hóa và Thể thao tỉnh Ninh Bình

Vai trò Kinh đô Hoa Lư xưa và công việc của ngày hôm nay cho mai sau

22/10/2019

Thế kỷ 10 là một cái mốc rất quan trọng của lịch sử Việt Nam. Đó là Thế kỷ bản lề, khép lại thời kỳ ngàn năm Bắc thuộc và mở ra thời đại độc lập dân tộc. Ở vào thế kỷ 10 khu vực Quần thể danh thắng Tràng An được người dân nước Việt, được vua Đinh Tiên Hoàng chọn làm nơi xây dựng kinh đô-kinh đô Hoa Lư, trung tâm văn hoá Việt Nam, biểu trưng cho tinh thần bất khuất, tự lực, tự cường và truyền thống thống nhất quốc gia, một mốc son chói lọi trong lịch sử Việt Nam. Kinh đô Hoa Lư một kinh đô có không gian giao thoa về tự nhiên và văn hóa xã hội, có vai trò lớn lao trong lịch sử dân tộc.

         Năm 1960 các nhà khoa học mới bắt đầu nghiên cứu về kinh thành này dưới góc độ điều tra, thám sát, khai quật khảo cổ học. Cho đến nay ở Hoa Lư đã trải qua 3 lần khai quật và nhiều lần thám sát khảo cổ với tổng diện tích gần 2000m2, tập trung tại một số tuyến tường thành và vị trí trung tâm của di tích. So với tổng thể khu di tích thì diện tích đã được khai quật nghiên cứu là rất nhỏ nhưng đã đưa lên mặt đất nhiều tư liệu quý như các nền móng tường thành, kiến trúc, sân, nền cung điện, công trình kiến trúc Phật giáo và đặc biệt là một khối lượng lớn vật liệu kiến trúc, hiện đang được bảo tồn tại chỗ. Điều này góp phần ghi nhận sự chân thực của các cuốn cổ sử đã viết về kinh thành này và cho chúng ta nhận biết được diện mạo, quy mô, tính chất của Kinh đô Hoa Lư trong lịch sử. Cùng với những kết quả nghiên cứu về địa chất, địa mạo phục vụ cho việc xây dựng hồ sơ di sản Thế giới năm 2012 đã có những thông tin cho chúng ta kể tiếp câu truyện về sự thích ứng và cách sử dụng không gian thung lũng núi đá vôi vào việc mưu sinh và  phục hồi, bảo tồn văn hóa của dân tộc Việt. Để đến nay thế giới đã khẳng định giá trị nổi bật toàn cầu về văn hóa ở nơi đây.

Nơi giao thoa về địa mạo tự nhiên:

       Không gian Hoa Lư là không gian giao thoa giữa miền núi và miền đồng bằng, là vùng trung gian giữa lưu vực sông Hồng và lưu vực sông Mã.

       Và ở một góc độ hẹp hơn trong Quần thể danh thắng Tràng An thì không gian Kinh đô Hoa Lư là không gian giao thoa điển hình giữa dạng địa hình tháp karst đá vôi độc lập (Núi Chợ; núi Chẽ; núi Cột Cờ; núi Thanh Lâu; núi Đầm; núi Cánh Hàn) và địa hình các nón karst đá vôi được nối với nhau bởi những sống núi sắc mảnh (dãy núi Chu Ma; dãy núi Mã Yên; dãy núi Mồng Mang; dãy núi Hang To…) Nhà Đinh đã cho đắp thành, nối các tháp karst cùng với các nón karst thành một kinh thành mang dáng dấp một thung lũng lớn, một quân thành.

Nơi giao thoa về văn hóa xã hội

        Không gian xã hội Hoa Lư, nếu nhìn một cách nội quan, thì đó là một “động”, một “thung lũng” hay đúng hơn, một “bồn địa giữa nút”. Có thể phát triển nông nghiệp và xây dựng xóm làng. Có thể xây dựng thành một căn cứ quân sự hiểm yếu. Nếu nhìn theo các mối liên hệ cơ cấu, thì đó là một miền chân núi, cái gạch nối giữa miền núi và miền đồng bằng, miền Mường và miền Việt; hơn nữa đó lại là cái gạch nối giữa miền Bắc và miền Trung, giữa lưu vực sông Hồng và lưu vực sông Mã.

        Thế kỷ X là một cái mốc rất quan trọng của lịch sử Việt Nam. Đó là Thế kỷ bản lề, khép vĩnh viễn thời kỳ ngàn năm Bắc thuộc và mở ra thời đại độc lập dân tộc lâu dài, là bước quá độ từ thế kỷ IX của văn hóa nô dịch lệ thuộc Đường triều sang thế kỷ XI của sự phục hưng văn hóa dân tộc trên nền tảng dân gian cổ truyền, bước quá độ từ “văn hóa vùng” sang “văn hóa dân tộc”, từ chữ Hán sang chữ Nôm, từ “văn hóa truyền miệng” sang văn hóa chữ viết, từ “văn hóa Việt Mường chung (culture orale) sang “văn hóa Việt (culture écrite) và “văn hóa Mường” trong cơ cấu văn minh Đại Việt thống nhất mà đa dạng. Cả một thế kỷ quá độ về văn hóa và văn minh, về thế ứng xử tập thể và lối sống, một thế kỷ có liên tục và gián đoạn, có đổ vỡ, phá hủy (cái cũ) và vun vén, xây nền từ chất liệu (văn hóa) cũ và mới. Có những cái rất sượng và thô bạo… Ngược lại có những cái rất tinh tế và văn minh – khoan dung, giản dị, thương người trong cùng một nước, tha bỏ lực dịch, bình quân thuế ruộng, đúc tiền, mở chợ, mở đường thủy bộ, có đặt bến đò, đặt quán nghỉ, xây lầu, dựng chùa, nung gạch hoa, chế đồ sứ, tổ chức lễ mừng sinh nhật, vui đua thuyền, bước đầu tổng hợp ca múa nhạc dân gian thành sân khấu chèo, có cả xiếc chuyên nghiệp.

          Tuy có sự đan xen, nhưng nhìn chung nửa đầu thế kỷ X là sự hoàn thành độc lập dân tộc và nửa cuối thế kỷ X là sự hoàn thành thống nhất quốc gia.

          Phối hợp cái nhìn Thời – Không, Không – Thời liên tục của A. Einstein, của thế kỷ XX, ta sẽ nhận nhìn một “Không gian xã hội Hoa Lư thế kỷ X” cực kỳ thú vị, mà đặc trưng cơ bản của chính nó là cái chất quá độ - bản lề của văn hóa – văn minh, của lịch sử, của cuộc sống dân Việt, nước Việt nói chung.

          Không gian từ văn minh Đông Sơn đến văn minh Đại Việt. Cái “không gian bản lề” đó của Hoa Lư - Trường Châu, là một yếu tố địa - chính trị và địa - chiến lược để Đinh Bộ Lĩnh vận dụng và biến đổi thành không gian xã hội bản lề giữa một thời kỳ “thống nhất hình thức”- dựa trên chính quyền thống trị Bắc thuộc “An Nam đô hộ phủ”- và một thời kỳ “thống nhất thực sự”- dựa trên nhà nước dân tộc.([1])

Trong bối cảnh thế kỷ X, kinh đô Hoa Lư hình thành trong điều kiện lợi thế về địa - chính trị, địa - chiến lược và được Đinh Bộ Lĩnh có quan hệ xã hội, kinh tế, văn hóa rộng, lợi dụng một cách tài tình. Cùng với những yếu tố về dòng dõi, quê hương, Đinh Bộ Lĩnh đã quyết định xây dựng kinh đô ở Hoa Lư.

         Hệ thống những loại vật liệu kiến trúc tham gia vào xây dựng kiến trúc ở cố đô Hoa Lư bao gồm các loại chất liệu gạch, ngói, đất nung, đá và gỗ.  Sự xuất hiện phổ biến của nhóm vật liệu gạch, ngói cùng với một số đồ đất nung, đồ gỗ và đồ đá nằm trong các di tích kiến trúc đã cho biết Hoa Lư xưa có những công trình kiến trúc quy mô, bề thế của một kinh thành.

Thành Hoa Lư là trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa Việt Nam thế kỷ X.

         Cách xây dựng thành lợi dụng địa thế tự nhiên hiểm trở, kết hợp hài hòa với những tuyến thành nhân tạo, cách lợi dụng những tuyến đường thủy như sông Sào Khê  làm hào, cộng với kỹ thuật xây thành, xây cung điện có dùng đến cây họ cỏ; cây thân gỗ để chống lún, gia cố móng tường thành, công trình kiến trúc trong môi cảnh thung lũng Hoa Lư lầy lội thể hiện cách thích ứng, cách sử dụng những lợi thế đặc điểm địa hình tự nhiên của nhân loại ở một tầm cao mới trên cơ sở kế thừa truyền thống sử dụng vùng núi và thung lũng.

         Trong Khu di tích cố đô Hoa Lư và vùng phụ cận còn có sự hiện diện hàng trăm ngôi đền, chùa, miếu, phủ…các công trình kiến trúc tôn giáo và tín ngưỡng hiện hữu trong các hang động, mái đá hay bên sườn núi, đều đồng điệu cùng thiên nhiên  và có kiến trúc mang tính kỹ thuật cao được xây dựng ở những thời điểm khác nhau. Trong số các di tích trên nổi bật là 2 ngôi đền thờ vua Đinh Tiên Hoàng và vua Lê Đại Hành trên địa bàn của Kinh đô Hoa Lư xưa, với lối kiến trúc gỗ ở thế kỷ XVII mang đậm tính dân gian, trong đó có những đồ tế khí như sập long sàng bằng đá, nghê đá có tính mỹ thuật đạt đến trình độ cao ở thế kỷ XVII. Bên cạnh đó còn có đền thờ công chúa Phất Kim, thờ con gái vua Đinh, chùa Nhất Trụ nổi tiếng với cột đá khắc kinh phật ở thế kỷ 10.

         Bên cạnh những di sản văn hóa vật thể ấy là những di sản văn hóa phi vật thể như lễ hội Hoa Lư với tích cờ lau tập trận, lễ rước nước… hay tín ngưỡng thờ thần núi, tín ngưỡng thờ Mẫu cùng các tín nghưỡng tôn giáo khác gắn với các địa danh huyền thoại. Những di sản văn hóa phi vật thể ấy đã song song tồn tại hàng ngàn năm ở những làng quê – làng nghề bên những công trình di tích lịch sử, là phần hồn văn hóa dân tộc Việt.

         Khu di tích Lịch sử văn hóa cố đô Hoa Lư và những di sản văn hóa khác ở vùng phụ cận có liên quan là kho tư liệu vô cùng quí giá của Việt Nam nói riêng, nhân loại nói chung. Kinh đô Hoa Lư đã có ý nghĩa lớn lao trong lịch sử của Việt Nam và nhân loại. Việc Bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị văn hóa lịch sử cho Kinh đô xưa càng có ý nghĩa lớn lao hơn trong bối cảnh thế giới toàn cầu hóa.

        Trước hết công việc điều tra, thám sát, nghiên cứu, khai quật khảo cổ học ở Khu di tích lịch sử văn hóa Cố đô Hoa Lư cần được triển khai. Kết quả nghiên cứu sẽ cho chúng ta cơ sở để tiến hành các bước tiếp theo như bảo tồn tại chỗ các điểm khai quật, làm công viên khảo cổ học phục vụ nghiên cứu và khách du lịch, phục dựng lại kinh đô Hoa Lư (dự kiến tại Quảng trường Đinh Tiên Hoàng Đế)  trong tương lai gần cho thế hệ hôm nay và mai sau biết về quá khứ của dân tộc Việt Nam.

        Triển khai dự án tái định cư cho một số lượng lớn người dân đang sống trong khu vực thành Nội và thành Ngoại cũng là công việc cần làm ngay để giữ cảnh quan tháp núi đá vôi độc lập; diện mạo của Kinh đô Hoa Lư xưa đồng thời tiến hành dự án bảo tồn, tôn tạo các di tích cổ là làng cổ và nhà cổ nhằm tạo điểm tham quan cho du khách, phục vụ đời sống cộng đồng.

       Những giá trị di sản văn hóa Phi vật thể gắn liền với những di tích trong phạm vi và vùng liền kề với Khu di tích Lịch sử Văn hóa Cố đô Hoa Lư, cần được nghiên cứu, sưu tầm, tư liệu hóa và phát huy giá trị, là phần tài nguyên du lịch nhân văn không thể thiếu bên cạnh những di tích vật chất.

        Những công việc chính trên đây, có những phần đã được phê duyệt, đã tiến hành một phần. Phần lớn công việc còn đang trước mắt và những dự án mới cần thực hiện.

[1]    Trần Quốc Vượng: Việt Nam thế kỷ X – Văn hóa văn minh, sách Thế kỷ X – những vấn đề lịch sử, Nxb KHXH, H, 1984, tr 217

                                                                                                                                                                                                 Nguyễn Cao Tấn